Các biến thể Type_A_(lớp_tàu_ngầm)

Tàu ngầm Type A được chia làm bốn phân lớp:

  • Type-A (甲型(伊九型), Kō-gata, lớp I-9?)
  • Type-A Mod.1 (甲型改一(伊十二型), Kō-gata Kai-1, lớp I-12 ?)
  • Type-A Mod.2 (甲型改二(伊十三型), Kō-gata Kai-2, lớp I-13?)
  • Type V21 Type (第5094号艦型, Dai-5094-Gō kan-gata, lớp tàu thứ 5094?). Không được chế tạo.

Type-A (lớp I-9)

I-10 vào năm 1942 tại Penang

Đề án số S35Ja. Thiết kế của chúng được dựa trên Junsen III (lớp I-7). Ba tàu ngầm được chế tạo trong giai đoạn 1938-1942 trong khuôn khổ các Chương trình Maru 3 năm 1937 (chiếc số 35 và 36) và Chương trình Maru 4 năm 1939 (chiếc số 138).

Số hiệuTênXưởng đóng tàuĐặt lườnHạ thủyHoàn tấtSố phận
35I-9[Ghi chú 1]Xưởng vũ khí Hải quân Kure25 tháng 1, 193820 tháng 5, 193913 tháng 2, 1941Bị tàu khu trục USS Frazier đánh chìm tại Kiska, 13 tháng 6, 1943.
36I-10Xưởng tàu Kawasaki, Kōbe7 tháng 6, 193820 tháng 9, 193931 tháng 10, 1941Bị các tàu khu trục USS David W. TaylorUSS Riddle đánh chìm gần Saipan, 4 tháng 7, 1944.
138I-1110 tháng 4, 194028 tháng 2, 194116 tháng 5, 1942Mất do tai nạn hay trúng thủy lôi gần Funafuti, tháng 1, 1944.

Type A Cải tiến 1 (lớp I-12)

Đề án số S35B. Năm chiếc được lên kế hoạch chế tạo trong Chương trình Maru Tsui năm 1941 (các chiếc số 620 - 621) và Chương trình Kai-Maru 5 năm 1942 (các chiếc số 5091 - 5093). Chúng trang bị động cơ diesel công suất yếu hơn nhằm rút ngắn thời gian đóng tàu. Chỉ có một chiếc I-12 được hoàn tất theo thiết kế ban đầu; I-13 và những chiếc tiếp theo được cải biến sang một lớp tàu mới (lớp I-13), sau khi số lượng tàu lớp I-400 Sen Toku bị cắt giảm.

Số hiệuTênXưởng đóng tàuĐặt lườnHạ thủyHoàn tấtSố phận
620I-12Xưởng tàu Kawasaki-Kōbe Shipyard5 tháng 11, 19423 tháng 8, 194325 tháng 5, 1944Bị tàu quét mìn USS Ardent đánh chìm, 13 tháng 11, 1944.
621I-134 tháng 2, 1943Cải biến sang lớp I-13 vào tháng 10, 1943.
5091I-1418 tháng 5, 1943
5092I-15Xưởng tàu Kawasaki-Senshū30 tháng 4, 1943
5093I-124 tháng 6, 1943

Type A Cải tiến 2 (lớp I-13)

Yokosuka, 29 tháng 8, 1945. Từ trái sang phải: USS Proteus, I-400, I-401 và I-14

Đề án số S35C. Bốn chiếc nguyên thuộc Type A Cải tiến 1 (lớp I-12) được cải biến sang một lớp tàu mới (lớp I-13), sau khi số lượng tàu lớp I-400 Sen Toku bị cắt giảm. Chúng có hầm chứa máy bay lớn và những khoang hai bên để vận hành hai thủy phi cơ cường kích Aichi M6A1 Seiran. Những thiết bị trong vai trò soái hạm bị tháo dỡ. Chỉ có hai chiếc kịp hoàn tất và nhập biên chế.

Số hiệuTênXưởng đóng tàuĐặt lườnHạ thủyHoàn tấtSố phận
621I-13Xưởng tàu Kawasaki-Kōbe4 tháng 2, 194330 tháng 11, 194316 tháng 12, 1944Bị các tàu hộ tống khu trục USS Lawrence C. Taylor, USS Robert F. Keller và máy bay từ tàu sân bay hộ tống USS Anzio đánh chìm phía Đông Bắc quần đảo Ogasawara, 16 tháng 7, 1945.
5091I-1418 tháng 5, 194314 tháng 3, 194414 tháng 3, 1945Bị tàu khu trục USS Murray bắt giữ, 27 tháng 8, 1945; xuất biên chế, 15 tháng 9, 1945; đánh chìm như mục tiêu tại quần đảo Hawaii, 28 tháng 5, 1946.
5092I-15Xưởng tàu Kawasaki-Senshū
Xưởng tàu Kawasaki-Kōbe (sau khi hạ thủy)
30 tháng 4, 194312 tháng 4, 1944Cải biến thành tàu ngầm chở dầu, tháng 6, 1945;[1] Hoàn tất được 90%; tháo dỡ năm 1945.
5093I-1Xưởng tàu Kawasaki-Kōbe
Xưởng tàu Kawasaki-Senshū (sau khi hạ thủy)
24 tháng 6, 194310 tháng 6, 1944Hoàn tất được 70%; đắm trong một cơn bão, 18 tháng 9, 1945; trục vớt và tháo dỡ sau đó

Type V21

Đề án số S48. Ba chiếc được lên kế hoạch chế tạo trong Chương trình Kai-Maru 5 năm 1942 (các chiếc số 5094 - 5096). Tuy nhiên tất cả đều bị hủy bỏ vào cuối năm 1943 khi Hải quân Đế quốc Nhật Bản dự định chuyển trọng tâm sang chế tạo Type E (lớp tàu ngầm) (ja) (戊型潜水艦, Bo-gata sensuikan?) như là tàu ngầm chủ lực cho năm 1945.

Số hiệuTênXưởng đóng tàuĐặt lườnHạ thủyHoàn tấtSố phận
5094 - 5096Hủy bỏ năm 1943.